Vốn thơ ca cổ truyền từ các tập biên niên sử 'Quắm tố mướng' hoặc sử thi 'Tày pú xấc' cho đến các truyện thơ tình như Sống chụ son sao, Khun lú, Náng Ủa, Tản chụ xiết xương, sử thi chương Han….với các bài thơ, ca dao đều được dùng để 'khắp' (hát)….
Bước đầu đã có làn điệu 'lòng bản' và cách hát riêng cho mỗi loại bài thơ, xét theo hình thái sinh hoạt âm nhạc phân ra làm 2 hệ - theo Dương Đình Minh Sơn thì:
- Hệ tín ngưỡng 'hát thơ mo' do giới mo then hát khi cúng tế lễ.
- Hệ dân gian: hát kể chuyện tự sự, hát thơ tình, hát ví, hát hò trên sông, hát ru, hát đồng dao……vv….
Ở người Thái 2 chữ 'thơ ca' quả là đầy đủ và ý nghĩa 'Thơ để giải bầy nỗi lòng, ca (hát) để ngâm vài lời thơ gửi đến những cõi lòng ai đó'.
Thơ Thái là 1 thứ 'kinh thi' bản địa, hồn quê hòa đồng với thiên nhiên trời đất. Thơ dân gian Thái có 1 khối lượng đồ sộ với các truyện thơ, sử thi như đã nói ở trên đã trở thành các tác phẩm thơ cổ điển nổi tiếng.
Thơ đương đại của các tác giả Thái Sơn La (thời cách mạng xã hội chủ nghĩa) thường dùng lời thơ để hát (khắp xư) nói lên chí khí vươn lên của dân tộc mình, làm chủ bản Mường, cùng nhau đoàn kết các dân tộc anh em dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đất nước ngày 1 giàu mạnh - xin dẫn 1 số bài mới:
HÀO QUANG KHẨU CẢ
(tác giả tự dịch)
Từ xa xưa ông cha đặt tên Khau cả (1)
Là nói lên:
- Rắn hơn sắt thép, cứng quá kim cương giống gieo trồng mọi đất xanh tươi cho lúa chín hạt, quả ngọt nuôi người. Giặc Pháp muốn mượn oai hùng của núi, đặt trung tâm thống trị tỉnh ta và thành nơi diệt nguồn anh hùng đất nước.
Nhưng:
Khâu Cả là lò luyện con người gang thép chặt tan xiềng xích của thực dân, góp hun đúc những Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu và bao chiến sĩ/ những trái tim của cách mạng tỏa khắp non sông: chặt tan xiềng xích của thực dân Pháp, phong kiến/ góp phần đánh thắng hai đế quốc to. Đồi Khâu Cả cùng sóng cao cả nước giải phóng mình, xóa phu, thuế, nguột cuông. Dựng chính quyền cùng cả nước ViệtNamĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc/ hào quang khâu cả vượt chín tầng/ mây như ánh sáng soi đường cho ta bay bổng.
Sơn La, 9/7/1998
Hoàng Nó
(Cầm Văn Lường - 1925 đã mất)- quê Chiềng Ban, Mai Sơn.
(1) đồi Khâu Cả: ngọn núi (đồi) ở giữa thị xã Sơn La, nơi trước 1945 Pháp xây dinh công xứ (tỉnh trưởng) và nhà tù liền kề.
Sau là trụ sở UBHC khu tự trị Tây Bắc, nay là trụ sở UBND tỉnh Sơn La.
ĐÔI BỜ THƯƠNG NHỚ
Mặt trời đi qua sàn nhà người thương
Hạt nắng còn vương bên thềm cửa sổ
Hoàng hôn đi mặt trời không rủ
Để anh buồn trong nỗi nhớ hoàng hôn.
Anh mượn gió gửi lời câu thương nhớ
Mộc mạc thôi, tiếng hát tự bao giờ
Mười sẽ quên và chín sẽ quên
'Sông Mã cạn bằng đĩa mới quên'
Chín lần quên để ngàn lần thương nhớ!
Anh là con thuyền trôi trong dòng sông đôi mắt
Để đôi bờ bên nhớ bên thương
6/1997
Hà Trường Giang (1950)
Quê huyện sông Mã - Sơn La
VÀNG VÀ THƠ
Một câu thơ, một hàng vàng
Cân coi thử, ai nặng hơn ai?
Nem công, chả quế ăn vội
Không hóc cũng cay!
Cà dưa, tương ớt nhai lâu hóa ngọt
Anh kiếm vàng chỉ bằng nước bọt
Tôi làm thơ mệt óc, mỏi tim
Cái gì giữ mãi hương thơm
Vàng bằng bọt dễ tan theo bọt
Thơ bằng tim, đậm mãi trong tim
Cầm Biêu (1920-1997)
Quê Mường Chanh - Mai Sơn
LỜI MẸ
Yêu nhau bằng lời nói
Mẹ bảo chưa đủ
Bằng mân khiêng cỗ nặng
Mẹ bảo cũng chưa no
Vội đón sau đón trước
Cành vướng sợi tơ lòng
Mẹ bảo!
Hãy lấy ngày làm gang để đếm
Lấy tháng làm sải để đo tấc lòng
Mưa to có cùng nhau hứng?
Mặt trời làm tấm gương soi
Soi vào khuôn mặt
Soi vào lòng dạ tim gan
Ốm đau, ai tránh khỏi đôi lần
Giầu nghèo có lúc cánh cửa kẹp ngón tay
Đắng, ngọt, chua, cay, nhạt…
Đầu lưỡi nếm cho rành
Tự đáy lòng mình 'cân đong'
Xử sự công bằng
1983
Lò Văn Cậy (1928 - 1994)
Quê Sốp Cộp - Sông Mã
HOA RỪNG
Thấy em lượm bông vạt nương chân núi
Như đứng giữa dải ngân hà
Anh vứt bó cây, chạy ngay tới
Chẳng đợi em ưng ý
Anh cứ mà lượm theo.
Mới đầu anh lượm cây này, em lượm cây kia
Rồi lượm chung cây
Lượm chung cành
Lượm cả tay nhau.
Mặt trời bảo về, ta chưa muốn
Ta trốn mặt trời dưới rặng vừng bên nương
Tắm trong hương hoa vừng thơm ngát
Gió ngàn ru nghiêng ngả vừng xanh
Tia trời chiều vuốt ve áo hoa em lay động
Hàng cúc bạc long lanh
Ngực em mười đôi cúc bướm
Có mười đôi bóng anh lẫn mười đôi bóng hoa vừng
Ngực rực hồng tia nắng
Ngực ngấn đầy hương hoa.
Vương Trung (1938)
ÁNH CHỚP TRỜI XA
Mưa rơi trên núi Giảng?
Chớp lóe sáng chân mây!
Ai phơi gì sàn ngoài quên dọn. Mau dọn!
Cụ bà vừa nhắc cháu vừa than:
- Tháng 5, tháng trời buồn, không buồn
Tháng 6, lặng mưa dông - Sao dông (1)
'Rồng chọi rồng' ngày đêm không ngớt.
Cất tiếng cười hai cháu cầm tay
- Ánh lửa hàn nhà máy, Bà ơi!
(1) Tục ngữ: Tháng 5: trời buồn
Tháng 6: trời kiêng mưa
Sơn La 19 - 5 - 1979
Lò Văn E (1933 - 1995)
Quê Sốp Cộp - Sông Mã
NHỚ CON
Có điều gì sánh được
Mẹ nhớ con
Thương từ những lỗi lầm
Mưa lâm thâm mà lòng mẹ thành bão
Nắng lên rồi nỗi nhớ hóa là mây
Tình yêu của mẹ là trái chín trên cây
Để cho con bốn mùa hương vị ngọt thật đắm say
11 - 1992
Cầm Thị Phụi
(Phó chủ tịch HĐND tỉnh)
ĐÊM HỘI MÚA XÒE
Tiếng trống, tiếng cồng vang giục giã
Như chắp cánh niềm vui bay cao
Cả 'Khuống' mường bỗng dưng nghiêng ngả
Với vòng xòe nhún nhẩy say sưa
Đôi chân thon thon quen theo lối nương.
Đôi chân bè đạp mòn lối ruộng
Quyện bên nhau rập rình
'Khắm xéo' quàng trên áo cóm
Tất cả rung lên, cả rừng hoa chao đảo
Cái dùi gỗ băm trên mặt trống
Rền như giông, như sấm
'Họa…họa…Huệ…Huệ…'
Cả vòng xòe cuồng lên
Theo nhịp trống, nhịp tim
Tung chân nhảy hết mình, hết sức
'Đàn bướm' cúc muốn bay khỏi ngực
Chiếc mũ nồi, cũng chực bay theo
Vòng xòe quay, quay mãi không ngừng
Lương Văn Tộ (1946)
Quê Sông Mã - Sơn La
CÂY BAN TRÊN RỪNG
(Tác giả tự dịch)
Ào ào bãi xoáy
Đá lăn, cây đổ
Thân sâng, gốc sở ngổn ngang
Một cây Ban đứng điềm nhiên
Cạnh lối lên nương làm cỏ
Hỏi giông, hỏi gió
Sao Ban kia vẫn bình yên phận thường?
Cây ban rằng: 'hòa tình yêu'
Trắng trong tuổi trẻ
Chung thủy tận già
Lửa mường đất gốc, chưa thành than
(thì không thể chết
Gió dập thân, cành, chưa tan tành em vẫn tươi xanh)
Một cây Ban
Đứng trên nương
Lò Xuân Thương (1936)
Quê Púng Tra - Thuận Châu
CHIỀU BẾN VẠN (1)
Bến cũ đâu hỡi sông?
Bến ở trong lòng nước
Miệt mài ngày đêm chảy
Về Hòa Bình khơi xa.
Bản tình ca bất tận
Gập ghềnh đá nơi đâu?
Ở trong lòng nước ấy
Với biển hồ phẳng lặng
Xóa những dòng vách ngăn.
Và mai lên
Ngược xuôi
Thuyền đánh cá
Và chiều buông
Sương giăng tròn
Trăng xóa
Còi tàu vang xa, vang xa
Bến Vạn Yên 1995
Hoàng Bạch Long 1949
Quê Huy Thượng - Phù Yên
(1) Bến Vạn Yên: Phố nhỏ Vạn Yên, bên bến Sông Đà, xã Tân Phong, Phù Yên ….xưa là Sông Đà ghềnh thác, nay là Hồ Thủy điện mênh mông.
KHOẢNG XANH
Gió Lào mang hơi lửa
Hun sém cả trưa hè
Cháy khét tiếng ve
Rừng tre trơ trụi lá
Con chim vội vã sà xuống khe trốn
Sợi nắng muốn chăng đan mặt cỏ
Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả
Trái đất đã quen mùi khắc nghiệt!
Đến con kiến cũng còn phải ung dung thư thái
Miệt mài tha mồi về tổ
Ai như quả bứa chín vàng mơ
Trong trẻo giữa trưa hè
Thời gian nhòa vào im lắng
Một khoảng không trống vắng
Vỗ ào vào cánh xanh
Lò Vũ Vân 1943
Quê Bắc Yên - Sơn La
XUÂN BẢN THÀN
Tết
Ở bản Thàn
Cái vui
Sôi lên từ hũ rượu cần
Bụng trống
Vú chiêng
Rung lên
Cả mái sàn chao đảo
Đỉnh núi cao lúc lắc cái đầu
Măng vầu
Măng sặt
Dỏng tai đón mưa rơi
Xuân 1996
Lò Vũ Vân
BIỂN Ở THẢO NGUYÊN
Ở độ cao một nghìn năm mươi mét
Rất xa biển nên thèm nghe sóng biển
Mượn gió ngàn làm sóng vỗ lao xao
Ước có biển nên gom mây về làm biển
Biển Thảo Nguyên biển trắng vỗ mênh mông
Đảo là những ngọn thông, chóp núi
Cho thuyền chim đi về neo đậu
Thảo nguyên xanh đắm mình trong màn huyền ảo
Đưa ta về thời xưa cổ tích
Dưới đại dương lộng lẫy thủy cung?
Biển Thảo Nguyên chỉ trong trưa khoảnh khắc
Bỗng chốc tan - biển biến về đâu?
Ánh nắng vàng chuốt ngọc lên lá
Lại trong veo, ngời sắc Thảo Nguyên.
Thảo Nguyên Mộc Châu hè 1997
Lò Vũ Vân
NHỚ VỀ PHỐ VẠN
Chúng tôi dân tứ xứ
Gặp nhau ở nơi đây
Dựng nên một Phố nhỏ
Phố Vạn Yên, Vạn Yên (1)
Anh Phúc Kiến, Quảng Đông (2)
Tôi Mường Bi, Mường Động (3)
Còn chị hay mơ mộng
Theo chồng lên nơi đây
Là dân Nam Định đó (4)
Một dãy phố nhỏ thôi
Bao dòng đời đã chảy
Tụ về Phố nhỏ này
Nhớ bến Vạn thuở ấy
Thuyền đuôi én ngược xuôi
Ai đi xuống chợ Bờ
Ai ngược dòng Đà Giang
Lên Mường Chiên, Mường Ét
Dòng sông vẫn êm trôi
Nối phố nhỏ của tôi
Với bao bờ thương nhớ
Ơi bến Vạn, phố Vạn
Phố của chúng tôi đó
Mùa đông heo hút gió
Tết về câu đối đỏ
Tiếng pháo lại rộ vang
Tiếng chuông điểm đình Ang (7)
Tiếng trống vang đình Hán
Hồn thiên cổ bay về
Bản làng trong khói hương
Mùa hè nóng rát bỏng
Những cây phượng trước ngõ
Lại cháy đỏ màu hoa…
Nay phố đã đi xa
Chìm đáy nước sông Đà
Ôi phố núi nho nhỏ
Phố của chúng tôi đó
Vẫn cháy màu phượng đỏ
Trong lòng mỗi chúng tôi
Rồi một ngày không xa
Hoa phượng lại rực đỏ
Trên phố mới nguy nga
Tôi lại viết bài ca
Về bến Vạn, phố Vạn
Phố của hoa phượng đỏ
Thắm mãi bên sông Đà
6/1996
(1) Bến phố Vạn Yên (Tân Phong, Phù Yên)
(2) 2 tỉnh của quê gốc người Hoa
(3) Thuộc Hòa Bình quê người Mường
(4) Chợ Bờ (Hòa Bình), nay chìm dưới hồ
(5) Thuộc Quỳnh Nhai
(6) Đình Ang, Đình Hán là 2 ngôi đình thuộc xã Tâm Phong
Nhà thơ Đinh Tân (1942)
Dân tộc Mường
Quê Tân Phong, Phù Yên, Sơn La
CÁC DÂN TỘC Ở SƠN LA
Điều tra dân số 1/4/1999: Toàn tỉnh có 882.077 người (đến 1/4/2009 có 1.080.641 người). Có 12 dân tộc anh em.
Thái | 482.985 | Người chiếm 54,7 % |
Kinh | 153.646 | Người chiếm 17,42% |
Hmông | 114.578 | Người chiếm 13,00% |
Mường | 71.906 | Người chiếm 8,15% |
Các dân tộc khác | | Người chiếm 6,73% |
Trình độ dân trí tính đến 2002:
Tỉ lệ biết chữ 70,8%
Học sinh phổ thông 220.430 em
Giáo viên 10.209 người
Thầy thuốc (y, bác sỹ) 26 người/1 bệnh viện