Sơn La Ký sự - Bài 51: Thơ ca Thái
Xứ Thái, có thể nói là xứ sở của hát thơ (khắp xư).

Vốn thơ ca cổ truyền từ các tập biên niên sử 'Quắm tố mướng' hoặc sử thi 'Tày pú xấc' cho đến các truyện thơ tình như Sống chụ son sao, Khun lú, Náng Ủa, Tản chụ xiết xương, sử thi chương Han….với các bài thơ, ca dao đều được dùng để 'khắp' (hát)….

Bước đầu đã có làn điệu 'lòng bản' và cách hát riêng cho mỗi loại bài thơ, xét theo hình thái sinh hoạt âm nhạc phân ra làm 2 hệ - theo Dương Đình Minh Sơn thì:

- Hệ tín ngưỡng 'hát thơ mo' do giới mo then hát khi cúng tế lễ.

- Hệ dân gian: hát kể chuyện tự sự, hát thơ tình, hát ví, hát hò trên sông, hát ru, hát đồng dao……vv….

Ở người Thái 2 chữ 'thơ ca' quả là đầy đủ và ý nghĩa 'Thơ để giải bầy nỗi lòng, ca (hát) để ngâm vài lời thơ gửi đến những cõi lòng ai đó'.

Thơ Thái là 1 thứ 'kinh thi' bản địa, hồn quê hòa đồng với thiên nhiên trời đất. Thơ dân gian Thái có 1 khối lượng đồ sộ với các truyện thơ, sử thi như đã nói ở trên đã trở thành các tác phẩm thơ cổ điển nổi tiếng.

Thơ đương đại của các tác giả Thái Sơn La (thời cách mạng xã hội chủ nghĩa) thường dùng lời thơ để hát (khắp xư) nói lên chí khí vươn lên của dân tộc mình, làm chủ bản Mường, cùng nhau đoàn kết các dân tộc anh em dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng Đất nước ngày 1 giàu mạnh - xin dẫn 1 số bài mới:

HÀO QUANG KHẨU CẢ

(tác giả tự dịch)

Từ xa xưa ông cha đặt tên Khau cả (1)

Là nói lên:

- Rắn hơn sắt thép, cứng quá kim cương giống gieo trồng mọi đất xanh tươi cho lúa chín hạt, quả ngọt nuôi người. Giặc Pháp muốn mượn oai hùng của núi, đặt trung tâm thống trị tỉnh ta và thành nơi diệt nguồn anh hùng đất nước.

Nhưng:

Khâu Cả là lò luyện con người gang thép chặt tan xiềng xích của thực dân, góp hun đúc những Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Lương Bằng, Tô Hiệu và bao chiến sĩ/ những trái tim của cách mạng tỏa khắp non sông: chặt tan xiềng xích của thực dân Pháp, phong kiến/ góp phần đánh thắng hai đế quốc to. Đồi Khâu Cả cùng sóng cao cả nước giải phóng mình, xóa phu, thuế, nguột cuông. Dựng chính quyền cùng cả nước ViệtNamĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc/ hào quang khâu cả vượt chín tầng/ mây như ánh sáng soi đường cho ta bay bổng.

Sơn La, 9/7/1998

Hoàng Nó

(Cầm Văn Lường - 1925 đã mất)- quê Chiềng Ban, Mai Sơn.

(1) đồi Khâu Cả: ngọn núi (đồi) ở giữa thị xã Sơn La, nơi trước 1945 Pháp xây dinh công xứ (tỉnh trưởng) và nhà tù liền kề.

Sau là trụ sở UBHC khu tự trị Tây Bắc, nay là trụ sở UBND tỉnh Sơn La.

ĐÔI BỜ THƯƠNG NHỚ

Mặt trời đi qua sàn nhà người thương

Hạt nắng còn vương bên thềm cửa sổ

Hoàng hôn đi mặt trời không rủ

Để anh buồn trong nỗi nhớ hoàng hôn.

Anh mượn gió gửi lời câu thương nhớ

Mộc mạc thôi, tiếng hát tự bao giờ

Mười sẽ quên và chín sẽ quên

'Sông Mã cạn bằng đĩa mới quên'

Chín lần quên để ngàn lần thương nhớ!

Anh là con thuyền trôi trong dòng sông đôi mắt

Để đôi bờ bên nhớ bên thương

6/1997

Hà Trường Giang (1950)

Quê huyện sông Mã - Sơn La

VÀNG VÀ THƠ

Một câu thơ, một hàng vàng

Cân coi thử, ai nặng hơn ai?

Nem công, chả quế ăn vội

Không hóc cũng cay!

Cà dưa, tương ớt nhai lâu hóa ngọt

Anh kiếm vàng chỉ bằng nước bọt

Tôi làm thơ mệt óc, mỏi tim

Cái gì giữ mãi hương thơm

Vàng bằng bọt dễ tan theo bọt

Thơ bằng tim, đậm mãi trong tim

Cầm Biêu (1920-1997)

Quê Mường Chanh - Mai Sơn

LỜI MẸ

Yêu nhau bằng lời nói

Mẹ bảo chưa đủ

Bằng mân khiêng cỗ nặng

Mẹ bảo cũng chưa no

Vội đón sau đón trước

Cành vướng sợi tơ lòng

Mẹ bảo!

Hãy lấy ngày làm gang để đếm

Lấy tháng làm sải để đo tấc lòng

Mưa to có cùng nhau hứng?

Mặt trời làm tấm gương soi

Soi vào khuôn mặt

Soi vào lòng dạ tim gan

Ốm đau, ai tránh khỏi đôi lần

Giầu nghèo có lúc cánh cửa kẹp ngón tay

Đắng, ngọt, chua, cay, nhạt…

Đầu lưỡi nếm cho rành

Tự đáy lòng mình 'cân đong'

Xử sự công bằng

1983

Lò Văn Cậy (1928 - 1994)

Quê Sốp Cộp - Sông Mã


HOA RỪNG

Thấy em lượm bông vạt nương chân núi

Như đứng giữa dải ngân hà

Anh vứt bó cây, chạy ngay tới

Chẳng đợi em ưng ý

Anh cứ mà lượm theo.

Mới đầu anh lượm cây này, em lượm cây kia

Rồi lượm chung cây

Lượm chung cành

Lượm cả tay nhau.

Mặt trời bảo về, ta chưa muốn

Ta trốn mặt trời dưới rặng vừng bên nương

Tắm trong hương hoa vừng thơm ngát

Gió ngàn ru nghiêng ngả vừng xanh

Tia trời chiều vuốt ve áo hoa em lay động

Hàng cúc bạc long lanh

Ngực em mười đôi cúc bướm

Có mười đôi bóng anh lẫn mười đôi bóng hoa vừng

Ngực rực hồng tia nắng

Ngực ngấn đầy hương hoa.

Vương Trung (1938)

ÁNH CHỚP TRỜI XA

Mưa rơi trên núi Giảng?

Chớp lóe sáng chân mây!

Ai phơi gì sàn ngoài quên dọn. Mau dọn!

Cụ bà vừa nhắc cháu vừa than:

- Tháng 5, tháng trời buồn, không buồn

Tháng 6, lặng mưa dông - Sao dông (1)

'Rồng chọi rồng' ngày đêm không ngớt.

Cất tiếng cười hai cháu cầm tay

- Ánh lửa hàn nhà máy, Bà ơi!

(1) Tục ngữ: Tháng 5: trời buồn

Tháng 6: trời kiêng mưa

Sơn La 19 - 5 - 1979

Lò Văn E (1933 - 1995)

Quê Sốp Cộp - Sông Mã

NHỚ CON

Có điều gì sánh được

Mẹ nhớ con

Thương từ những lỗi lầm

Mưa lâm thâm mà lòng mẹ thành bão

Nắng lên rồi nỗi nhớ hóa là mây

Tình yêu của mẹ là trái chín trên cây

Để cho con bốn mùa hương vị ngọt thật đắm say

11 - 1992

Cầm Thị Phụi

(Phó chủ tịch HĐND tỉnh)

ĐÊM HỘI MÚA XÒE

Tiếng trống, tiếng cồng vang giục giã

Như chắp cánh niềm vui bay cao

Cả 'Khuống' mường bỗng dưng nghiêng ngả

Với vòng xòe nhún nhẩy say sưa

Đôi chân thon thon quen theo lối nương.

Đôi chân bè đạp mòn lối ruộng

Quyện bên nhau rập rình

'Khắm xéo' quàng trên áo cóm

Tất cả rung lên, cả rừng hoa chao đảo

Cái dùi gỗ băm trên mặt trống

Rền như giông, như sấm

'Họa…họa…Huệ…Huệ…'

Cả vòng xòe cuồng lên

Theo nhịp trống, nhịp tim

Tung chân nhảy hết mình, hết sức

'Đàn bướm' cúc muốn bay khỏi ngực

Chiếc mũ nồi, cũng chực bay theo

Vòng xòe quay, quay mãi không ngừng

Lương Văn Tộ (1946)

Quê Sông Mã - Sơn La

CÂY BAN TRÊN RỪNG

(Tác giả tự dịch)

Ào ào bãi xoáy

Đá lăn, cây đổ

Thân sâng, gốc sở ngổn ngang

Một cây Ban đứng điềm nhiên

Cạnh lối lên nương làm cỏ

Hỏi giông, hỏi gió

Sao Ban kia vẫn bình yên phận thường?

Cây ban rằng: 'hòa tình yêu'

Trắng trong tuổi trẻ

Chung thủy tận già

Lửa mường đất gốc, chưa thành than

(thì không thể chết

Gió dập thân, cành, chưa tan tành em vẫn tươi xanh)

Một cây Ban

Đứng trên nương

Lò Xuân Thương (1936)

Quê Púng Tra - Thuận Châu

CHIỀU BẾN VẠN (1)

Bến cũ đâu hỡi sông?

Bến ở trong lòng nước

Miệt mài ngày đêm chảy

Về Hòa Bình khơi xa.

Bản tình ca bất tận

Gập ghềnh đá nơi đâu?

Ở trong lòng nước ấy

Với biển hồ phẳng lặng

Xóa những dòng vách ngăn.

Và mai lên

Ngược xuôi

Thuyền đánh cá

Và chiều buông

Sương giăng tròn

Trăng xóa

Còi tàu vang xa, vang xa

Bến Vạn Yên 1995

Hoàng Bạch Long 1949

Quê Huy Thượng - Phù Yên

(1) Bến Vạn Yên: Phố nhỏ Vạn Yên, bên bến Sông Đà, xã Tân Phong, Phù Yên ….xưa là Sông Đà ghềnh thác, nay là Hồ Thủy điện mênh mông.

KHOẢNG XANH

Gió Lào mang hơi lửa

Hun sém cả trưa hè

Cháy khét tiếng ve

Rừng tre trơ trụi lá

Con chim vội vã sà xuống khe trốn

Sợi nắng muốn chăng đan mặt cỏ

Nhưng chẳng sao, chẳng sao cả

Trái đất đã quen mùi khắc nghiệt!

Đến con kiến cũng còn phải ung dung thư thái

Miệt mài tha mồi về tổ

Ai như quả bứa chín vàng mơ

Trong trẻo giữa trưa hè

Thời gian nhòa vào im lắng

Một khoảng không trống vắng

Vỗ ào vào cánh xanh

Lò Vũ Vân 1943

Quê Bắc Yên - Sơn La

XUÂN BẢN THÀN

Tết

Ở bản Thàn

Cái vui

Sôi lên từ hũ rượu cần

Bụng trống

Vú chiêng

Rung lên

Cả mái sàn chao đảo

Đỉnh núi cao lúc lắc cái đầu

Măng vầu

Măng sặt

Dỏng tai đón mưa rơi

Xuân 1996

Lò Vũ Vân


BIỂN Ở THẢO NGUYÊN

Ở độ cao một nghìn năm mươi mét

Rất xa biển nên thèm nghe sóng biển

Mượn gió ngàn làm sóng vỗ lao xao

Ước có biển nên gom mây về làm biển

Biển Thảo Nguyên biển trắng vỗ mênh mông

Đảo là những ngọn thông, chóp núi

Cho thuyền chim đi về neo đậu

Thảo nguyên xanh đắm mình trong màn huyền ảo

Đưa ta về thời xưa cổ tích

Dưới đại dương lộng lẫy thủy cung?

Biển Thảo Nguyên chỉ trong trưa khoảnh khắc

Bỗng chốc tan - biển biến về đâu?

Ánh nắng vàng chuốt ngọc lên lá

Lại trong veo, ngời sắc Thảo Nguyên.

Thảo Nguyên Mộc Châu hè 1997

Lò Vũ Vân

NHỚ VỀ PHỐ VẠN

Chúng tôi dân tứ xứ

Gặp nhau ở nơi đây

Dựng nên một Phố nhỏ

Phố Vạn Yên, Vạn Yên (1)

Anh Phúc Kiến, Quảng Đông (2)

Tôi Mường Bi, Mường Động (3)

Còn chị hay mơ mộng

Theo chồng lên nơi đây

Là dân Nam Định đó (4)

Một dãy phố nhỏ thôi

Bao dòng đời đã chảy

Tụ về Phố nhỏ này

Nhớ bến Vạn thuở ấy

Thuyền đuôi én ngược xuôi

Ai đi xuống chợ Bờ

Ai ngược dòng Đà Giang

Lên Mường Chiên, Mường Ét

Dòng sông vẫn êm trôi

Nối phố nhỏ của tôi

Với bao bờ thương nhớ

Ơi bến Vạn, phố Vạn

Phố của chúng tôi đó

Mùa đông heo hút gió

Tết về câu đối đỏ

Tiếng pháo lại rộ vang

Tiếng chuông điểm đình Ang (7)

Tiếng trống vang đình Hán

Hồn thiên cổ bay về

Bản làng trong khói hương

Mùa hè nóng rát bỏng

Những cây phượng trước ngõ

Lại cháy đỏ màu hoa…

Nay phố đã đi xa

Chìm đáy nước sông Đà

Ôi phố núi nho nhỏ

Phố của chúng tôi đó

Vẫn cháy màu phượng đỏ

Trong lòng mỗi chúng tôi

Rồi một ngày không xa

Hoa phượng lại rực đỏ

Trên phố mới nguy nga

Tôi lại viết bài ca

Về bến Vạn, phố Vạn

Phố của hoa phượng đỏ

Thắm mãi bên sông Đà

6/1996

(1) Bến phố Vạn Yên (Tân Phong, Phù Yên)

(2) 2 tỉnh của quê gốc người Hoa

(3) Thuộc Hòa Bình quê người Mường

(4) Chợ Bờ (Hòa Bình), nay chìm dưới hồ

(5) Thuộc Quỳnh Nhai

(6) Đình Ang, Đình Hán là 2 ngôi đình thuộc xã Tâm Phong

Nhà thơ Đinh Tân (1942)

Dân tộc Mường

Quê Tân Phong, Phù Yên, Sơn La


CÁC DÂN TỘC Ở SƠN LA


Điều tra dân số 1/4/1999: Toàn tỉnh có 882.077 người (đến 1/4/2009 có 1.080.641 người). Có 12 dân tộc anh em.

Thái

482.985

Người chiếm 54,7 %

Kinh

153.646

Người chiếm 17,42%

Hmông

114.578

Người chiếm 13,00%

Mường

71.906

Người chiếm 8,15%

Các dân tộc khác

Người chiếm 6,73%

Trình độ dân trí tính đến 2002:

Tỉ lệ biết chữ 70,8%

Học sinh phổ thông 220.430 em

Giáo viên 10.209 người

Thầy thuốc (y, bác sỹ) 26 người/1 bệnh viện


Họ tên no image
no image
Tiêu đề no image
Nội dung no image
Mã kiểm tra no image
Video tuyên truyền
THÔNG TIN TRA CỨU

image advertisement

Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1