Hiệu quả bước đầu từ mô hình xử lý nước thải và phụ phẩm chế biến cà phê
(sonla.gov.vn) Trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp xanh, bền vững đang trở thành xu hướng tất yếu, mô hình xử lý nước thải và phụ phẩm trong chế biến cà phê đang được triển khai tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đã bước đầu ghi nhận những kết quả tích cực, góp phần giải bài toán môi trường cho ngành hàng cà phê chủ lực của địa phương.
Mô hình do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (NOMAFSI) triển khai tại Hợp tác xã Thái Việt, từ tháng 4/2024 đến tháng 6/2025, trong khuôn khổ Dự án “Giải pháp xử lý chất thải cà phê - Tích hợp các mô hình bền vững để quản lý nước thải và phụ phẩm vào chính sách môi trường địa phương”, do Mạng lưới học hỏi Nông nghiệp sinh thái Đông Nam Á (ALiSEA) tài trợ.
Theo đánh giá của NOMAFSI, xử lý chất thải và phụ phẩm trong sản xuất cà phê hiện đang là một trong những thách thức lớn tại Sơn La. Cà phê chè (Arabica) - chủng loại chiếm ưu thế ở địa phương - thường được chế biến theo phương pháp ướt, tiêu tốn lượng lớn nước và phát sinh nhiều nước thải. Nếu không xử lý đúng cách, nước thải và phụ phẩm như vỏ cà phê có thể gây ô nhiễm nguồn nước, môi trường sống và ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của người dân.
Tuy nhiên, khi được xử lý hợp lý, các phụ phẩm cà phê hoàn toàn có thể trở thành nguồn tài nguyên tái sử dụng hiệu quả, điển hình như sản xuất trà cascara từ vỏ cà phê, làm phân bón hữu cơ hoặc nguyên liệu chế biến sâu. Trong đó, nước thải - yếu tố khó xử lý nhất đang được tiếp cận theo hướng ứng dụng công nghệ sinh học và phân tách dòng thải.
Bể hiếu khí trong hệ thống xử lý nước thải cà phê.
Hệ thống xử lý nước thải được thiết kế gồm 3 bể lót bạt HDPE, với tổng diện tích 716 m². Bể thứ nhất dùng để tách vỏ, rửa hạt và thu gom nước thải; bể thứ hai là bể kỵ khí, có bổ sung men vi sinh để giảm hàm lượng chất ô nhiễm; bể thứ ba là bể hiếu khí, giúp lưu giữ và tiếp tục xử lý nước trước khi thải ra môi trường hoặc tái sử dụng cho các mục đích phù hợp. Song song đó, mô hình ủ vỏ cà phê cũng được triển khai để tạo ra nguồn phân hữu cơ phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Theo thống kê, tỉnh Sơn La hiện có 5 cơ sở chế biến cà phê quy mô công nghiệp và khoảng 15 cơ sở sơ chế, chế biến cà phê quả tươi sang cà phê nhân. Mỗi năm, hoạt động sơ chế, chế biến này phát sinh khoảng 90.000 tấn vỏ cà phê và hơn 100.000 m³ nước thải cần được xử lý. Trong khi các cơ sở lớn đã phần nào áp dụng công nghệ sinh học để xử lý phụ phẩm làm phân bón, nhiều cơ sở nhỏ lẻ vẫn còn hạn chế về kỹ thuật, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường.
Chính vì vậy, việc triển khai mô hình xử lý nước thải và phụ phẩm tại khu vực Mai Sơn không chỉ giúp giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, mà còn góp phần nâng cao giá trị chuỗi sản xuất cà phê, giảm chi phí đầu vào, hỗ trợ cơ sở chế biến nhỏ tiếp cận giải pháp công nghệ, đồng thời khuyến khích tinh thần sản xuất có trách nhiệm với môi trường.
Trong định hướng lâu dài, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Sơn La đã tham mưu UBND tỉnh xây dựng kế hoạch phát triển bền vững ngành cà phê giai đoạn 2026 - 2030. Mục tiêu là thu hút đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến quy mô lớn (từ 200 tấn quả tươi/ngày) tại các địa bàn trọng điểm như: Khu vực Thuận Châu, Mai Sơn…, hướng tới 80% sản lượng quả được chế biến công nghiệp và 20% cà phê nhân được chế biến sâu.
Mô hình xử lý chất thải cà phê là bước đi cụ thể, thiết thực trong lộ trình xanh hóa ngành nông nghiệp của tỉnh. Qua đó, không chỉ nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu mà còn góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển nền nông nghiệp tuần hoàn, bền vững, gắn với bảo vệ môi trường và nâng cao sinh kế cho người dân vùng cao.
Quốc Tuấn